Hiện nay, các quốc gia trồng lúa trên thế giới đều có xu hướng phòng trừ sâu bệnh trên đồng ruộng bằng biện pháp phòng trừ tổng hợp (IPM). Biện pháp này đem lại nhiều lợi ích cho người nông dân như giảm tiền mua thuốc sâu. Chi phí công lao động cho việc phun thuốc, tránh được sự ô nhiễm môi trường. Trong các yếu tố giúp cho IPM được thành công thì thiên địch đóng vai trò rất quan trọng.
Trong tự nhiên có sự cân bằng sinh học thật kỳ diệu, cân bằng sinh học giữa sâu hại lúa và thiên dịch là một ví dụ. Trên ruộng lúa bên cạnh những côn trùng có hại còn có những côn trùng có ích. Chúng là kẻ thù của côn trùng có hại nhưng lại là người bạn tốt của nông dân. Có rất nhiều loài côn trùng, nhện hại những côn trùng có hại, đặc biệt là ở những nơi tránh dùng thuốc trừ sâu rộng rãi. Trong cả vòng đời mỗi con thiên địch ăn rất nhiều sâu bọ. Thiên địch xuất hiện ở hầu hết các môi trường trồng lúa. Một số thiên địch như một vài loài nhện, bọ rùa, bọ cánh cứng tìm cây có mồi như bọ rầy xanh hút lá, bọ rầy hút thân cây, bướm và sâu non của cây đục thân và cây xanh. Nhện thích mồi di động nhưng một số lại thích ăn trứng sâu. Nhiều loại nhện săn mồi ban đêm, một số khác lại kéo màng và ăn tất cả những thứ gì mắc vào màng nhện dù ngày hay đêm. Nhiều loại bọ cánh cứng, một số loài châu chấu ăn thịt và dễ thích ăn trứng sâu. Một con nhện Lycosa trưởng thành có thể ăn 5 - 15 rầy nâu trưởng thành mỗi ngày. Các loài thiên địch khác như bọ rầy, sâu non của sâu đục thân, sâu cuốn lá bò từ lá này sang lá khác bị rơi xuống mặt nước và sẽ bị bọ niễng và các loài thiên địch khác tấn công ngay. Nếu không có các loài côn trùng có ích thì sâu bọ có thể phát triển nhanh đến mức có thể ăn trụi lúa. Rất nhiều loại thiên địch xuất hiện trên ruộng lúa, nhưng chúng tôi chỉ xin giới thiệu một số loài quan trọng sau:
1. Bọ rùa đỏ: Tên khoa học là Micraspis sp. Là một loài bọ rùa điển hình, hình ôvan, màu đỏ chói đậm hoặc nhạt. Bọ rùa hoạt động vào ban ngày trên ngọn cây lúa ở môi trường đất cạn cũng như đất ẩm ướt. Cả trưởng thành và sâu non đều ăn mồi bọ rầy cũng như sâu non và trứng.
Bọ rùa đỏ - Micraspis sp.
2. Bọ cánh cứng ba khoang: Tên khoa học là Ophionea nigrofasciata, là loài côn trùng có thân cứng hoạt động mạnh. Cả sâu non có màu đen bóng và trưởng thành màu đỏ đều tích cực tìm sâu cuốn lá hại lúa ta có thể tìm thấy bọ cánh cứng trong khoan ổ lá do sâu cuốn lá cuốn. Sâu non của thiên địch hoá nhộng dưới đất ở vùng trồng lúa cạn hoặc trong các bờ ruộng trồng lúa nước. Mỗi con thiên địch phàm ăn ăn từ 3 - 5 con sâu non mỗi ngày. Con trưởng thành cũng tìm bọ rầy và ve để làm mồi.
Bọ cánh cứng ba khoang - Ophionea nigrofasciata
3. Bọ xít nước ăn thịt: Tên khoa học là Veliidae. Đó là loại bọ xít nhỏ, có vạch trên lưng, có nhiều trên ruộng nước. Trưởng thành vai rộng có thể có cánh hoặc không có cánh. Loại không có cánh không có vạch đen và vạch trắng ở cổ và cánh trước. Vicrovelia có thân hình nhỏ và bàn chân trước chỉ có một đốt do đó có thể phân biệt được với các loài bọ xít khác. Mỗi con cái đẻ 20 - 30 trứng vào thân cây lúa phía bên trên mặt nước. Thời gian sống của bọ xít nước là 1 - 2 tháng, dạng có cánh sẽ tản đi nơi khác khi ruộng lúa khô nước. Những con trưởng thành tụ tập ăn bọ rầy non khi chúng rơi xuống nước. Bọ xít non cũng ăn bọ rầy non giống như các loài sâu bọ khác có thân mềm. Microvelia sẽ là một thiên địch có kết quả hơn khi chúng tấn công thành từng nhóm và bọ rầy non là mồi dễ bị khuất phục hơn những con mồi khác to hơn. Mỗi con Microvelia có thể ăn 4 – 7 con bọ rầy mỗi ngày.
Bọ xít nước ăn thịt - Microvelia peramoena (Veliidae)
4. Bọ xít mù xanh: Tên khoa học là Cyrtorhinus, là một loài thuộc nhóm ăn thực vật, thứ yếu mới là thiên địch, chúng thích ăn trứng và sâu non của các loài rầy. Con trưởng thành màu xanh và đen, sâu non có thể xuất hiện nhiều trên ruộng có bọ rầy phá hại cả trên ruộng nước lẫn ruộng khô. Cytobinus đẻ trứng vào mô thực vật, sau 2 - 3 tuần sẽ trưởng thành và có thể sinh sản 10 – 20 con non. Chúng tìm trứng rầy ở bẹ lá và thân, dùng vòi nhọn hút khô trứng. Mỗi thiên địch một ngày ăn 7 – 10 trứng hoặc 1 - 5 bọ rầy.
Bọ xít mù xanh - Cyrtorhinus lividipennis
5. Con đuôi kìm: Tên khoa học là Eborerellia sp., đặc điểm của loài bọ đuôi kìm là có một đôi càng sau như cái hình kẹp, dùng để tự vệ nhiều hơn là để bắt mồi. Eborerellia màu đen bóng, giữa các đốt bụng có khoang trắng và có điểm trắng đầu đỉnh râu. Chúng thường sống trên ruộng khô và làm tổ dưới đất ở gốc cây lúa, cách tìm chúng tốt nhất là đào đất lên. Con cái chăm sóc số trứng chúng đẻ, mỗi con đẻ 200 - 350 trứng. Con trưởng thành sống từ 3-5 tháng và hoạt động chủ yếu vào ban đêm. Loài bọ này chui vào các rãnh sâu đục thân đã đục để tìm sâu non. Đôi khi chúng trèo lên lá để tìm mồi sâu cuốn lá. Mỗi ngày chúng ăn từ 20 - 30 con mồi.
Con đuôi kìm - Euborellia sp.
6. Nhện ăn thịt Lycosa: Tên khoa học là Lycosa pseudoannulata, có vạch hình nĩa trên lưng và bụng. Loại nhện này rất nhanh và đến định cư trên ruộng lúa nước hoặc lúa cạn vừa mới chuẩn bị xong. Chúng tụ tập sớm trên ruộng lúa và bắt mồi sâu hại trước khi chúng ở mức gây hại cho cây trồng. Con cái sống 3 - 4 tháng và đẻ 200 - 400 trứng có thể nở ra 60 - 80 con đực. Lycosa là loài nhện phổ biến nhất trên cây trồng, khi bị động chúng bò rất nhanh trên mặt nước. Chúng không kéo màng tấn công con mồi trực tiếp. Nhện trưởng thành ăn rất nhiều loại côn trùng có hại, kể cả bướm đục thân. Nhện đực cũng tấn công bọ rầy non, mỗi ngày chúng ăn từ 10 – 15 con mồi. Con đực có thân mình và súc biện to.
Nhện ăn thịt - Lycosa pseudoannulata
Việc nuôi thiên địch hàng loạt để thả ra ruộng lúa nhằm phòng trừ sâu hại bằng phương pháp sinh học là việc làm hết sức tốn kém. Trên mỗi mảnh ruộng của nông dân đã có sẳn rất nhiều loài thiên địch. Các loài thiên địch cần được bảo vệ bằng cách sử dụng dè dặt các loại thuốc trừ sâu phổ rộng. Chỉ sử dụng thuốc trừ sâu khi có hại ở mức gây hại và cần phải tuân thủ nguyên tắc 4 đúng.
(Theo KS. Trần Văn Hiến | Viện Lúa ĐBSCL)