Tương đồng về mục tiêu và nguyên tắc
Mục tiêu của NNTH là tái sử dụng, tái chế chất thải, phế phụ phẩm hữu cơ thành các sản phẩm có ích cho thực vật, động vật, con người, hệ sinh thái; điều đó hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc “ sức khỏe” trong NNHC nhằm “duy trì và nâng cao sức khỏe của đất, thực vật, động vật, con người và trái đất. Các mô hình NNTH cũng vận hành phù hợp với nguyên tắc “sinh thái” của NNHC, thực chất đó là các hệ sinh thái sống, các chất hữu cơ được vận động trong các vòng tuần hoàn theo các quá trình tự nhiên và đa dạng sinh học. Phát triển NNTH và NNHC đều là phát triển nông nghiệp bền vững.
Tương đồng về nhiều biện pháp kỹ thuật
Nhiều yêu cầu kỹ thuật trong tiêu chuẩn NNHC cũng là các giải pháp được áp dụng phổ biến trong NNTH như: tái chế các chất thải, phụ phẩm có nguồn gốc thực vật và động vật làm nguyên liệu đầu vào cho trồng trọt (phân bón hữu cơ, che tủ đất…) hoặc cho chăn nuôi ( thức ăn tinh, thô, xanh…); luân canh, xen canh, trồng cây che phủ đất, trồng cây họ đậu, cây phân xanh; không đốt các thảm thực vật, tàn dư cây trồng; hoặc cơ sở chăn nuôi phải tự cung cấp tối thiểu 50% lượng thức ăn chăn nuôi…
Sự khác biệt giữa NNHC và NNTH
NNHC là hệ thống quản lý sản xuất theo tiêu chuẩn: NNHC là một tiêu chuẩn sản xuất với các chỉ tiêu rất nghiêm ngặt chặt chẽ, tuân thủ 4 nguyên tắc: Sức khoẻ, Sinh thái, Công bằng và Cẩn trọng nhằm đẩy mạnh và tăng cường sức khỏe của hệ sinh thái nông nghiệp bao gồm cả đa dạng sinh học, các chu trình sinh học và năng suất sinh học.
Tất cả các hành vi của người sản xuất đều phải phù hợp với tiêu chuẩn thì sản phẩm mới được chứng nhận của bên thứ 3 và được dãn nhãn là sản phẩm hữu cơ lưu thông trên thị trường.
NNTH là phương thức tổ chức sản xuất: NNTH là phương thức tổ chức sản xuất với nguyên tắc: chất thải và phụ phẩm của quá trình sản xuất này là đầu vào của quá trình sản xuất khác. Tùy điều kiện cụ thể mà hình thành các vòng tuần hoàn khác nhau:
- Về quy mô: Có vòng tuần hoàn lớn (ví dụ, đồng cỏ - nuôi bò - biogas + giun trùn quế, ruồi lính đen - gia cầm, thủy sản - đồng cỏ) hay vòng tuần hoàn nhỏ hơn trong phạm vi một ngành hàng, lĩnh vực sản xuất (ví dụ, trồng lúa - nấm rơm - trồng lúa)…
- Về phạm vi: Từ nhỏ lẻ (ví dụ, mô hình VAC hộ gia đình: từ chất thải sinh hoạt hữu cơ - nuôi giun trùn quế, ruồi lính đen - phân bón rau, hoa + trùn, ấu trùng nuôi giun gà, nuôi chim, cá cảnh) đến phạm vi cả nước (ví dụ, phòng trào thu gom phân loại rác thải - làm phân bón hữu cơ hoặc phát điện).
- Về mức độ áp dụng tiêu chuẩn NNHC: Tùy điều kiện cụ thể, các mô hình NNTH có thể áp dụng tiêu chuẩn GAP hay NNHC ở mức độ khác nhau:
+ Mô hình NNTH theo tiêu chuẩn NNHC: Ap dụng đầy đủ các yêu cầu, biện pháp kỹ thuật theo tiêu chuẩn NNHC, khi đó mô hình NNTH cũng là mô hình NNHC, sản phẩm được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn NNHC.
+ Mô hình NNTH theo hướng NNHC, theo GAP: Chỉ áp dụng một số yêu cầu, biện pháp kỹ thuật theo tiêu chuẩn NNHC (ví dụ, dùng phân hữu cơ, xen canh, tủ gốc… nhưng vẫn bón thêm phân vô cơ, dùng thuốc BVTV…). Khi đó sản phẩm đạt quy định an toàn thực phẩm, nhưng không đạt tiêu chuẩn sản phẩm hữu cơ.
(Theo TS. Phạm Đồng Quảng)
